Trong bối cảnh nền kinh tế đang chuyển dịch mạnh mẽ sang mô hình tăng trưởng dựa trên khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo, các doanh nghiệp khoa học và công nghệ ngày càng được Nhà nước ưu tiên hỗ trợ thông qua nhiều chính sách ưu đãi về thuế, tín dụng, đất đai và thương mại hóa sản phẩm. Cùng với đó, để được công nhận là doanh nghiệp khoa học và công nghệ, một trong những điều kiện tiên quyết là doanh nghiệp phải sở hữu hoặc được sử dụng hợp pháp kết quả khoa học và công nghệ. Vậy “kết quả khoa học và công nghệ” là gì? Được xác định và chứng minh theo căn cứ pháp lý nào? Bài viết dưới đây sẽ giúp doanh nghiệp hiểu rõ khái niệm này, đồng thời nắm bắt vai trò của nó trong việc đăng ký và hưởng các chính sách hỗ trợ dành cho doanh nghiệp khoa học và công nghệ.

Khái niệm và hình thức thể hiện kết quả khoa học và công nghệ?
Kết quả khoa học và công nghệ là thuật ngữ dùng để chỉ kết quả của hoạt động khoa học và công nghệ, kết quả của nhiệm vụ khoa học và công nghệ, hoặc kết quả của hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ đã được tạo ra thông qua quá trình nghiên cứu, ứng dụng hoặc triển khai thực tiễn. Các kết quả này phải được xác nhận hoặc công nhận bởi cơ quan có thẩm quyền theo quy định pháp luật.
Các kết quả khoa học và công nghệ được công nhận
Theo khoản 1 Điều 4 Thông tư 10/2021/TT-BKHCN và khoản 2, Điều 3 Nghị định 13/2019/NĐ-CP, các kết quả khoa học và công nghệ được cơ quan có thẩm quyền xác nhận, công nhận bao gồm các nhóm chính sau:
Thứ nhất, là các kết quả khoa học và công nghệ đã được cấp văn bằng bảo hộ theo quy định của pháp luật về sở hữu trí tuệ. Bao gồm: sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, giống cây trồng… được cấp văn bằng tại Việt Nam hoặc được công nhận đăng ký quốc tế theo các điều ước mà Việt Nam là thành viên. Đối với chương trình phần mềm, kết quả được công nhận khi đã được cấp Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả.
Thứ hai, là giống vật nuôi mới, giống thủy sản mới, giống cây trồng mới, giống cây lâm nghiệp mới hoặc tiến bộ kỹ thuật đã được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn công nhận.
Thứ ba, là kết quả nhiệm vụ khoa học và công nghệ đã đạt giải thưởng khoa học và công nghệ được xét tặng bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc tổ chức được cơ quan có thẩm quyền đồng ý cho xét tặng theo quy định của pháp luật.
Thứ tư, là các kết quả khoa học và công nghệ tạo ra sản phẩm đã được cấp phép lưu hành tại Việt Nam, như: giống cây trồng, phân bón, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật; thuốc và nguyên liệu làm thuốc, trang thiết bị y tế; chế phẩm sinh học trong lĩnh vực môi trường… Các sản phẩm này phải có quyết định công nhận lưu hành, giấy chứng nhận đăng ký lưu hành hoặc giấy phép tương đương do cơ quan có thẩm quyền cấp.
Thứ năm, là kết quả của nhiệm vụ khoa học và công nghệ sử dụng ngân sách nhà nước, đã được cơ quan có thẩm quyền công nhận hoặc cấp giấy chứng nhận đăng ký kết quả thực hiện nhiệm vụ.
Thứ sáu, là kết quả của nhiệm vụ khoa học và công nghệ không sử dụng ngân sách nhà nước, nhưng đã được cơ quan có thẩm quyền cấp giấy xác nhận hoặc văn bản thẩm định kết quả.
Thứ bảy, là các kết quả khoa học và công nghệ khác được Bộ, cơ quan ngang Bộ hoặc UBND cấp tỉnh xác nhận hoặc công nhận tùy theo lĩnh vực, phạm vi ứng dụng. Trong một số trường hợp, cơ quan chuyên môn về khoa học và công nghệ tại địa phương có thể gửi văn bản đề nghị Cục Phát triển thị trường và doanh nghiệp khoa học và công nghệ hỗ trợ xác định kết quả khoa học và công nghệ.
Như vậy, không phải mọi sản phẩm nghiên cứu hoặc sáng tạo đều đương nhiên được công nhận là kết quả khoa học và công nghệ hợp pháp. Việc chứng minh rõ nguồn gốc, căn cứ pháp lý của kết quả là điều kiện tiên quyết để cá nhân, tổ chức được hưởng quyền lợi tương ứng, đặc biệt là trong trường hợp đăng ký trở thành doanh nghiệp khoa học và công nghệ.
Xem thêm: Thủ tục cấp Giấy chứng nhận doanh nghiệp khoa học và công nghệ
Vai trò của kết quả khoa học và công nghệ trong việc công nhận doanh nghiệp khoa học và công nghệ
Kết quả khoa học và công nghệ không chỉ là tài sản trí tuệ quan trọng mà còn đóng vai trò trung tâm trong thủ tục công nhận doanh nghiệp khoa học và công nghệ.
Theo Điều 6 Nghị định 13/2019/NĐ-CP, một trong những điều kiện bắt buộc để doanh nghiệp được cấp Giấy chứng nhận doanh nghiệp khoa học và công nghệ là phải có khả năng tạo ra hoặc ứng dụng kết quả khoa học và công nghệ đã được cơ quan có thẩm quyền đánh giá, thẩm định và công nhận. Kết quả khoa học và công nghệ ở đây không chỉ là minh chứng cho năng lực nghiên cứu, đổi mới sáng tạo của doanh nghiệp, mà còn là điều kiện nền tảng để được xét công nhận.
Ngoài ra, doanh nghiệp còn phải chứng minh rằng doanh thu từ sản phẩm hình thành từ kết quả khoa học và công nghệ chiếm tối thiểu 30% tổng doanh thu. Tuy nhiên, đối với doanh nghiệp mới thành lập dưới 5 năm, pháp luật cho phép miễn điều kiện doanh thu – tức là chỉ cần sở hữu hoặc ứng dụng hợp pháp kết quả khoa học và công nghệ là đã có thể được công nhận là doanh nghiệp khoa học và công nghệ.
Có thể thấy, kết quả khoa học và công nghệ chính là yếu tố then chốt, mang tính quyết định trong quá trình xác lập tư cách doanh nghiệp khoa học và công nghệ. Việc đáp ứng đúng và đủ các điều kiện này là bước khởi đầu quan trọng để doanh nghiệp nâng cao vị thế trên thị trường đổi mới sáng tạo và tận dụng tối đa các chính sách hỗ trợ từ Nhà nước trong hành trình phát triển bền vững.
Trên đây là bài viết của Suntrust về vai trò của kết quả khoa học và công nghệ trong quá trình công nhận doanh nghiệp khoa học và công nghệ. Quý doanh nghiệp có thể tham khảo thêm hướng dẫn chi tiết về thủ tục xin cấp Giấy chứng nhận doanh nghiệp khoa học và công nghệ tại đây hoặc liên hệ trực tiếp với Suntrust để được tư vấn và hỗ trợ đầy đủ.