Doanh nghiệp tư nhân là một loại hình doanh nghiệp đặc thù trong hệ thống pháp luật doanh nghiệp Việt Nam, phản ánh rõ nét mô hình sở hữu và trách nhiệm cá nhân của chủ sở hữu đối với hoạt động kinh doanh. Dưới góc nhìn pháp luật là đối tượng điều chỉnh của nhiều quy định pháp lý liên quan đến đặc điểm, quyền và nghĩa vụ, trình tự và thủ tục thành lập doanh nghiệp. Việc nghiên cứu pháp luật về doanh nghiệp tư nhân góp phần làm sáng tỏ những vấn đề pháp lý đặt ra trong thực tiễn, từ đó đề xuất những định hướng hoàn thiện pháp luật nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể kinh doanh, đồng thời thúc đẩy sự phát triển bền vững của khu vực kinh tế tư nhân tại Việt Nam.

Khái quát chung về doanh nghiệp tư nhân
Khái niệm về doanh nghiệp tư nhân (DNTN) được quy định tại Khoản 1 Điều 188 Luật Doanh nghiệp 2020, cụ thể: “ Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp”. Như vậy DNTN là một loại hình doanh nghiệp, giống như các doanh nghiệp kinh doanh khác, được Nhà nước công nhận thông qua việc cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp. DNTN là tổ chức có tên riêng, có tài sản và liên tục thực hiện hoạt động kinh doanh với mục đích tìm kiếm lợi nhuận.
Loại hình doanh nghiệp này có những hạn chế nhất định trong hoạt động. Cụ thể, DNTN không được phép phát hành bất kỳ loại chứng khoán nào, ngoài ra, mỗi cá nhân chỉ được quyền thành lập duy nhất một DNTN, đồng thời chủ DNTN không được làm chủ hộ kinh doanh hoặc thành viên hợp danh của công ty hợp danh. Bên cạnh đó, DNTN không có quyền góp vốn để thành lập hoặc mua cổ phần, phần vốn góp trong công ty hợp danh, công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần khác.
Đặc điểm của doanh nghiệp tư nhân
*Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ sở hữu.
DNTN do một cá nhân thành lập và làm chủ có nghĩa là DNTN là doanh nghiệp thuộc sở hữu của một chủ doanh nghiệp. Tất cả các cá nhân đều có quyền thành lập DNTN trừ những cá nhân không có quyền thành lập và quản lý doanh nghiệp theo phát luật về doanh nghiệp. So với các loại hình công ti khác thì DNTN không có tài sản riêng, tài sản của DNTN vẫn là tài sản thuộc quyền sở hữu của chủ DNTN.
*Doanh nghiệp tư nhân không có tư cách pháp nhân
Căn cứ theo Điều 74 Bộ luật Dân sự 2015, một tổ chức được công nhận là pháp nhân khi đáp ứng đủ các điều kiện sau: Được thành lập hợp pháp theo quy định của Bộ luật Dân sự và các luật có liên quan khác; Có cơ cấu tổ chức theo quy định tại Điều 83 của Bộ luật Dân sự; Có tài sản độc lập với cá nhân, pháp nhân khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình; Nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp luật một cách độc lập.
Như phân tích ở đặc điểm thứ nhất khi nhận diện DNTN, DNTN do một cá nhân đầu tư vốn và làm chủ. Chủ DNTN có quyền sở hữu tài sản đã đầu tư vào DNTN, và DNTN không có tài sản độc lập. Do đó, DNTN không đủ điều kiện để được công nhận là pháp nhân.
*Chủ doanh nghiệp tư nhân chịu trách nhiệm vô hạn về mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
DNTN không có tư cách pháp nhân, không có tài sản riêng nên trách nhiệm tài sản đối với đối tác, khách hàng, chủ nợ, những người có liên quan đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp do chủ DNTN phải chịu trách nhiệm. Chủ DNTN chịu trách nhiệm tài sản vô hạn trong kinh doanh có nghĩa là chủ DNTN phải chịu trách nhiệm thanh toán các khoản nợ của doanh nghiệp bằng toàn bộ tài sản thuộc quyền sở hữu của mình bao gồm cả tài sản chủ DNTN đã đầu tư vào doanh nghiệp và tài sản mà chủ DNTN không đầu tư vào doanh nghiệp.
Cụ thể hơn, có thể hiểu là chủ DNTN không chỉ chịu trách nhiệm về hoạt động kinh doanh của DNTN trong phạm vi số vốn đầu tư đã đăng kí với cơ quan đăng kí kinh doanh mà còn phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản thuộc quyền sở hữu của mình không đầu tư vào doanh nghiệp trong trường hợp số vốn đầu tư đã đăng kí không đủ để thanh toán các khoản nợ phát sinh từ hoạt động kinh doanh của DNTN khi doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản.
Xem thêm: Xử lý hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ bằng biện pháp dân sự
Quyền và nghĩa vụ pháp lý của doanh nghiệp tư nhân
*Quyền của doanh nghiệp tư nhân
DNTN được phép thực hiện các quyền sau: Tự do kinh doanh ngành, nghề mà luật không cấm; Tự chủ kinh doanh và lựa chọn hình thức tổ chức kinh doanh; chủ động lựa chọn ngành, nghề, địa bàn, hình thức kinh doanh; chủ động điều chỉnh quy mô và ngành, nghề kinh doanh; Lựa chọn hình thức, phương thức huy động, phân bổ và sử dụng vốn; Tự do tìm kiếm thị trường, khách hàng và ký kết hợp đồng; Kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu; Tuyển dụng, thuê và sử dụng lao động theo quy định của pháp luật về lao động; Chủ động ứng dụng khoa học và công nghệ để nâng cao hiệu quả kinh doanh và khả năng cạnh tranh; được bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ theo quy định của pháp luật về sở hữu trí tuệ; Khiếu nại, tham gia tố tụng theo quy định của pháp luật,…
Bên cạnh đó, do DNTN không có tài sản riêng nên quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản của doanh nghiệp và quyền quyết định sử dụng lợi nhuận thuộc về chủ sở hữu doanh nghiệp (chủ SHDN). Chủ DNTN có toàn quyền quyết định đối với tất cả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, việc sử dụng lợi nhuận sau khi đã nộp thuế và thực hiện các nghĩa vụ tài chính khác theo quy định của pháp luật, có quyền bán, cho thuê doanh nghiệp.
*Nghĩa vụ của doanh nghiệp tư nhân
Chủ DNTN cần phải thực hiện các nghĩa vụ sau: Tuân thủ điều kiện kinh doanh và duy trì chúng trong suốt quá trình hoạt động; tổ chức kế toán và thực hiện đầy đủ nghĩa vụ thuế (thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế thu nhập cá nhân); đảm bảo quyền lợi hợp pháp của người lao động và thực hiện các chế độ bảo hiểm; thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đăng ký, công khai thông tin doanh nghiệp; và chịu trách nhiệm về tính trung thực, chính xác của mọi thông tin kê khai, báo cáo.
Thành lập doanh nghiệp tư nhân
*Hồ sơ thành lập doanh nghiệp tư nhân
Căn cứ theo Điều 24 Nghị định 168/2025/ NĐ-CP, hồ sơ thành lập DNTN cần bao gồm:
- Giấy đề nghị đăng ký doanh nghiệp.
- Bản sao giấy tờ pháp lý của cá nhân đối với chủ DNTN.
*Trình tự, thủ tục đăng ký doanh nghiệp
Bước 1. Người thành lập doanh nghiệp hoặc người được ủy quyền thực hiện đăng ký doanh nghiệp với Cơ quan đăng ký kinh doanh theo phương thức gồm: Đăng ký doanh nghiệp trực tiếp tại Cơ quan đăng ký kinh doanh; Đăng ký doanh nghiệp qua dịch vụ bưu chính; Đăng ký doanh nghiệp qua mạng thông tin điện tử.
Bước 2. Đăng ký doanh nghiệp qua mạng thông tin điện tử là việc người thành lập doanh nghiệp nộp hồ sơ đăng ký doanh nghiệp qua mạng thông tin điện tử tại Cổng thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp. Hồ sơ đăng ký doanh nghiệp qua mạng thông tin điện tử bao gồm các dữ liệu theo quy định của Luật này và được thể hiện dưới dạng văn bản điện tử. Hồ sơ đăng ký doanh nghiệp qua mạng thông tin điện tử có giá trị pháp lý tương đương hồ sơ đăng ký doanh nghiệp bằng bản giấy.
Bước 3. Tổ chức, cá nhân có quyền lựa chọn sử dụng chữ ký số theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử hoặc sử dụng tài khoản đăng ký kinh doanh để đăng ký doanh nghiệp qua mạng thông tin điện tử.
Bước 4. Tài khoản đăng ký kinh doanh là tài khoản được tạo bởi Hệ thống thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp, cấp cho cá nhân để thực hiện đăng ký doanh nghiệp qua mạng thông tin điện tử. Cá nhân được cấp tài khoản đăng ký kinh doanh chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc đăng ký để được cấp và việc sử dụng tài khoản đăng ký kinh doanh để đăng ký doanh nghiệp qua mạng thông tin điện tử.
Bước 5. Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận hồ sơ, Cơ quan đăng ký kinh doanh có trách nhiệm xem xét tính hợp lệ của hồ sơ đăng ký doanh nghiệp và cấp đăng ký doanh nghiệp; trường hợp hồ sơ chưa hợp lệ, Cơ quan đăng ký kinh doanh phải thông báo bằng văn bản nội dung cần sửa đổi, bổ sung cho người thành lập doanh nghiệp. Trường hợp từ chối đăng ký doanh nghiệp thì phải thông báo bằng văn bản cho người thành lập doanh nghiệp và nêu rõ lý do.
Từ những phân tích trên, có thể thấy rằng pháp luật Việt Nam đã có những quy định tương đối đầy đủ và rõ ràng về DNTN, tuy nhiên vẫn còn tồn tại một số bất cập cần được điều chỉnh nhằm đáp ứng yêu cầu của thực tiễn. Việc hoàn thiện pháp luật về DNTN không chỉ góp phần tạo lập môi trường kinh doanh minh bạch, công bằng mà còn thể hiện sự ghi nhận và khuyến khích của Nhà nước đối với vai trò quan trọng của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế quốc dân. Trong bối cảnh hội nhập và phát triển hiện nay, việc nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật đối với DNTN chính là một trong những yếu tố then chốt để thúc đẩy đổi mới, sáng tạo và phát triển kinh tế bền vững.
Để biết thêm thông tin chi tiết, vui lòng liên hệ Suntrust để được tư vấn và hỗ trợ.










