Hợp đồng thương mại là gì? Các đặc điểm, bản chất của hợp đồng thương mại

Luật Thương mại với tư cách là luật chuyên ngành chứa đựng các chế định đặc thù điều chỉnh các hoạt động kinh doanh thương mại trong đó có hợp đồng thương mại, tuy nhiên các quy định hiện hành lại chưa được chi tiết, minh thị. Vậy Hợp đồng thương mại là gì? Đặc điểm và bản chất của hợp đồng thương mại là như thế nào?

1. Khái niệm về hợp đồng thương mại

Hợp đồng có thể có nhiều tên gọi khác nhau như thỏa thuận, khế ước, giao kèo, ước định, nó không chỉ được hiểu đơn thuần là sự ký kết với nhau một điều gì đó trên giấy tờ mà là sự thống nhất ý chí của các bên với nhau nằm tạo ra một hậu quả pháp lý nhất định hay đó là sự thỏa thuận tự nguyện của các chủ thể nhằm xác lập, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ. Khái niệm pháp lý này có nghĩa rộng bao gồm tất cả các loại hợp đồng như hợp đồng dân sự, hợp đồng lao động, hợp đồng thương mại,…

Theo Điều 385 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định cụ thể khái niệm của hợp đồng: “Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”.

Trong hệ thống pháp luật Việt Nam hiện hành không có định nghĩa về hợp đồng, tuy nhiên trong Luật Thương mại 2005 có sử dụng thuật ngữ “hoạt động thương mại”, căn cứ điều khoản 1 Điều 3 thì “Hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác”.

Như vậy, trên cơ sở hợp đồng quy định chung trong Bộ luật Dân sự, ta có thể đưa ra định nghĩa, hợp đồng thương mại là một loại hợp đồng dân sự đặc thù, là thỏa thuận chủ yếu của các thương nhân với nhau hoặc với các chủ thể phi thương nhân nhằm thực hiện hành vi thương mại. Ngoài ra, ở một số nước khác trên thế giới, đặc biệt là các nước theo truyền thống châu Âu lục địa (dòng họ Civil Law) như Pháp, Đức và các nước chịu ảnh hưởng của dòng họ Civil Law này (như Tây Ban Nha, Bỉ,..) thì họ lại cho rằng mọi giao dịch gắn liền với hoạt động thương mại của thương nhân được coi là giao dịch thương mại còn hợp đồng thương mại thực chất chỉ là dạng của giao dịch thương mại khi có sự thống nhất ý chí của hai hay nhiều bên.

2. Đặc điểm của hợp đồng thương mại

Về chủ thể, chủ thể của hợp đồng thương mại chủ yếu và ít nhất một bên là thương nhân kinh doanh trong hoạt động thương mại. Căn cứ theo khoản 1 Điều 6 Luật Thương mại, thương nhân bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh. Pháp luật không quy định bắt buộc tất cả các chủ thể của hợp đồng thương mại đều phải là thương nhân mà theo từng trường hợp pháp luật có quy định cụ thể thì các tổ chức, cá nhân không phải là thương nhân cũng có thể tham gia hợp đồng thương mại.

Ví dụ, theo khoản 3 Điều 1 Luật thương mại, đối với những hợp đồng giữa thương nhân với chủ thể không phải là thương nhân và không nhằm mục đích sinh lợi, việc có áp dụng Luật thương mại để điều chỉnh quan hệ hợp đồng này hay không là do bên không có mục đích lợi nhuận quyết định. Điều này cũng là quy định có lợi cho người không phải thương nhân tham gia hoạt động thương mại có quyền lựa chọn pháp luật nào giải quyết vấn đề pháp lý của mình.

Về hình thức, hợp đồng thương mại được xác lập trên cơ sở của sự thống nhất ý chí và ý chí đó phải được biểu lộ ra bên ngoài một cách thực chất thông qua các hình thức là lời nói, phương thức điện tử, văn bản, hành vi cụ thể của các bên giao kết. Tuy nhiên, bởi tính chất của hợp đồng thương mại thường có giá trị lớn cũng như sự phức tạp trong hoạt động thương mại và những yêu cầu chặt chẽ về nội dung mà hợp đồng thương mại thường được xác lập dưới hình thức văn bản hoặc các hình thức khác có giá trị tương  đương văn bản.

Về đối tượng, đối tượng của hợp đồng thương mại bao gồm hàng hóa và dịch vụ (công việc). Trong đó, các hàng hóa, dịch vụ này đều không thuộc vào các trường hợp pháp luật cấm kinh doanh. Theo khoản 2 Điều 3 Luật Thương mại, hàng hóa bao gồm tất cả động sản và vật gắn liền với đất đai. Ngoài ra, còn có một đối tượng đặc biệt đó là hợp đồng thành lập công ty, bởi hợp đồng thành lập công ty là hợp đồng được ký kết trước khi công ty được thành lập; là sự thỏa thuận và thống nhất ý chí nhằm xác lập, thay đổi, chấm dứt các quyền và nghĩa vụ pháp lý liên quan đến quá trình đầu tư góp vốn thành lập một tổ chức kinh tế mới giữa các nhà đầu tư với mục đích kinh doanh sinh lời. Về mục đích, hợp đồng thương mại là hợp đồng xác lập vì mục đích lợi nhuận, gắn liền với hoạt động mang tính nghề nghiệp của thương nhân – hoạt động thương mại. Đặc điểm này gắn liền với chủ thể của hợp đồng thương mại chủ yếu là thương nhân – chủ thể thường xuyên hoạt động thương mại vì mục tiêu lợi nhuận. Tuy nhiên, hợp đồng thương mại không bắt buộc các bên đều hướng tới mục tiêu lợi nhuận.

3. Bản chất của hợp đồng thương mại

Thứ nhất, bản chất của hợp đồng thương mại là một loại hợp đồng dân sự có đền bù, một bên chủ thể có nghĩa vụ thực hiện cho bên kia một lợi ích và sẽ nhận lại một lợi ích tương ứng. Tính đền bù của hợp đồng thương mại thể hiện ở cách tiếp cận của Luật Thương mại: nếu trong hợp đồng không có thỏa thuận về giá, phí thù lao thì hợp đồng được hiểu là có giá, phí, thù lao, trừ khi có thỏa thuận khác và giá, phí, thù lao đó sẽ được tính theo quy định của pháp luật hoặc bằng các cách thức khác. Ví dụ về hợp đồng đại diện cho thương nhân – một loại hợp đồng ủy quyền, Luật Thương mại quy định nghĩa vụ bên được đại diện có nghĩa vụ trả thù lao theo Điều 147, nếu trong hợp đồng không có thỏa thuận trả thù lao thì thù lao phải trả sẽ được xác định theo Điều 86 Luật Thương mại là theo giá thị trường.

Thứ hai, hợp đồng thương mại có bản chất chung của hợp đồng do đó nguyên tắc giao kết và thực hiện hợp đồng thương mại cũng tuân theo các nguyên tắc giao kết và thực hiện của chế định hợp đồng. Trong đó đề cao nguyên tắc tự do thỏa thuận, thống nhất ý chí giữa các bên trong hợp đồng thương mại, nội dung của hợp đồng không được trái pháp luật. Việc thực hiện hợp đồng phải đúng theo như thỏa thuận và tuân thủ pháp luật, cùng với đó là đảm bảo tính trung thực và không xâm phạm đến lợi ích của các chủ thể khác.

Thứ ba, mối quan hệ giữa các bên trong hợp đồng thương mại là vì mục đích lợi nhuận tuy nhiên mối quan hệ đó phải được phát sinh trên cơ sở hành vi thương mại. Bởi vì hành vi thương mại luôn là một hoạt động nhằm mục đích lợi nhuận nhưng một hoạt động tạo ra lợi nhuận lại chưa chắc đã là một hành vi thương mại. Do đó mà đối tượng giao kết hợp đồng thương mại có ít nhất một bên phải là thương nhân.

Tham khảo dịch vụ tư vấn doanh nghiệp của Suntrust

Related Posts

Leave a Reply

Facebook Zalo Hotline